Ngày đăng: 23/10/2025 – Ngày cập nhật: 23/10/2025
Chuyển đổi số (CĐS) là xu hướng tất yếu của sự phát triển kinh tế xã hội và mang lại các giá trị kinh tế rất cao. Tuy nhiên không phải doanh nghiệp nào cũng có khả năng chuyển đổi số. Các doanh nghiệp lớn nhận thức rõ được điều này. Họ áp dụng chuyển đổi số và thành công đem lại hiệu quả sản xuất, kinh doanh rất tốt cho doanh nghiệp của mình. Việc chuyển đổi số thường dễ dàng và nhanh chóng. Còn các doanh nghiệp nhỏ và vừa lại không dễ dàng như các doanh nghiệp lớn. Với lượng tài chính ít ỏi, công nghệ còn thô sơ và lạc hậu, kiến thức cũng chưa được trang bị đầy đủ, doanh nghiệp nhỏ và vừa không thể áp dụng chuyển đổi số trong một thời gian ngắn. Họ cần rất nhiều thời gian, công sức và những bước đi vững chắc.
Trong bài viết này chỉ ra những nguyên nhân dẫn tới việc khó chuyển đổi số trong doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam, đồng thời đưa ra các giải pháp để các doanh nghiệp có thể áp dụng, mang lại những hiệu quả to lớn hơn. Đây cũng là những bước đi đúng đắn phù hợp dành cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Một số điểm thực chất của CĐS của doanh nghiệp
Một là, mặc dù chu trình của CĐS về nguyên lý bao gồm nhiều cấp độ, tuy nhiên không nên nhầm lẫn CĐS chỉ là CNTT (phần cứng và phần mềm) hay là số hóa dữ liệu thị trường, kỹ thuật số hóa các quy trình, các cơ cấu, các quan hệ. Tất cả các yếu tố này chỉ tạo nên hạ tầng số của doanh nghiệp mà không phải là CĐS. Chỉ khi nào chúng được tích hợp với các thành tựu công nghệ 4.0 để tạo chuyển đổi các bộ phận, thành tố đến toàn cục, tổng thể của mô hình kinh doanh số của doanh nghiệp mới được gọi là CĐS.
Hai là, đánh giá CĐS không phải chỉ là ở trình độ kỹ thuật và công nghệ kỹ thuật số mà điều cơ bản của những chuyển đổi sang mô hình kinh doanh số của doanh nghiệp được thể hiện ở thực chất và đầu ra của mô hình kinh doanh này. Tiêu điểm của CĐS chính là những đột phá trong chất lượng tăng trưởng của doanh nghiệp về thị trường; về kinh doanh (tốc độ, năng suất, năng lực cạnh tranh). Về đầu ra của mô hình kinh doanh, CĐS được thể hiện tập trung nhất ở mức độ đổi mới và sáng tạo trong phương cách công nghệ cung ứng các sản phẩm, dịch vụ mới với giá trị và sự hài lòng khách hàng mới, gia tăng và vượt trội.

Ba là, CĐS của doanh nghiệp là khái niệm có nội hàm ở tầm mức chiến lược bởi gắn với quá trình chuyển đổi cốt lõi của kinh doanh (mô hình kinh doanh). Vì vậy, phải có tư duy chiến lược không chỉ trong toàn cục tổng thể doanh nghiệp mà còn phải có tầm nhìn dài hạn trong các bước đi, lộ trình khoa học trong lập dự án, đầu tư trang thiết bị, chuyển giao và thực hành CĐS từng phân kì, tránh xa vào phong trào, hình thức phiến diện, cục bộ, nhất thời và lãng phí bởi CĐS có suất đầu tư lớn. Tính chiến lược của CĐS còn có vai trò không phải chỉ CĐS trong nội bộ doanh nghiệp mà còn là quá trình rộng, mở của doanh nghiệp bao hàm các quan hệ doanh nghiệp với thị trường, với nhà cung cấp và bạn hàng trong chuỗi cung ứng, với chính phủ và các cơ quan nhà nước, với công chúng có liên quan trong một hệ sinh thái của doanh nghiệp. CĐS còn là một quá trình “mở” với hàm ý CĐS không phải là câu chuyện làm 1 lần là xong mà luôn mở ra những tiền đề để nâng cấp mức độ, tiếp thu những thành tựu công nghệ 4.0 mới để doanh nghiệp trở thành doanh nghiệp 4.0 ngày càng hoàn chỉnh.
Đặc điểm chuyển đổi số của SMEs trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0

Tùy theo tiến động của các cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) mà tồn tại và phát triển các cấp độ và loại hình doanh nghiệp khác nhau, từ doanh nghiệp 1.0 đến nay là doanh nghiệp 4.0. Trong đó, doanh nghiệp 4.0 chính là loại hình vận dụng các thành tựu của CMCN 4.0 mà hạt nhân chính là mô hình kinh doanh số. Các SMEs là tập hợp các doanh nghiệp có quy mô, vốn pháp định và nhân lực theo quy định của mỗi quốc gia để phân định doanh nghiệp ở các cấp độ vừa, nhỏ và/hoặc siêu nhỏ trong so sánh với doanh nghiệp lớn và/hoặc siêu lớn. SMEs là loại hình doanh nghiệp chiếm tỷ trọng đa số lớn trong thành phần các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển. Từ tiêu chí phân loại chung này có thể nhận biết một số điểm mạnh/yếu đối với CĐS của loại hình doanh nghiệp này như sau:
– Chất lượng nhân lực kể cả với chủ và nhà quản trị cấp cao của nhiều SMEs chưa tương thích và đáp ứng yêu cầu của kinh doanh số kể cả về công nghệ và quản trị kinh doanh số; quy mô tài chính nhỏ khó thích hợp với yêu cầu đầu tư CĐS trên tầm chiến lược dài hạn. Phần lớn SMEs vẫn nằm trong trạng thái doanh nghiệp 2.0, 3.0 hiểu biết về những thành tựu công nghệ của CMCN 4.0 nói chung và CĐS nói riêng còn hạn hẹp.
– Đa số SMEs đều có tập tính e ngại đầu tư và kinh doanh mạo hiểm không lớn nên chủ yếu kinh doanh “nhỏ lẻ”, “tự làm tất cả” theo nguồn lực hữu hạn nên chỉ tiếp cận “nghĩa hẹp” của CĐS mà không có đủ tư duy rộng mở và ưu thế của thuê ngoài (outsourcing) các nguồn lực bên ngoài do CĐS mang lại.
– Mặc dù có những điểm hạn chế lớn nêu trên nhưng về cơ bản các SMEs có 4 điểm mạnh sau khi so sánh với các doanh nghiệp lớn, ưu thế chủ yếu sau:
- SMEs có tính linh hoạt tùy biến cao và thích nghi nhanh khi thực hành CĐS;
- Khả năng tạo nhảy vọt về chất lượng sang doanh nghiệp 4.0 cao hơn mà không gây thiệt hại lớn;
- Khả năng cấu hình lại và tái định dạng các nguồn lực và tổ chức truyền thống dựa trên CĐS cao hơn;
- Khả năng khắc phục các điểm yếu/hạn chế dễ dàng hơn, chi phí ít hơn, thực hiện nhanh hơn nếu được hỗ trợ thêm của Nhà nước, bên thứ ba và các doanh nghiệp đầu mối trong chuỗi cung ứng.
Thực trạng chuyển đổi số trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam hiện nay
Bên cạnh những thuận lợi về mặt cơ chế chính sách như việc ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, các doanh nghiệp vẫn gặp rất nhiều trở ngại khi tiến hành chuyển đổi số:
Trở ngại về nhận thức, năng lực của doanh nghiệp: Phần lớn các cơ sở sản xuất kinh doanh chưa có nhiều kinh nghiệm về ứng dụng, khai thác công nghệ. Việc có thể hiểu, hình dung và nhận thức được các thay đổi đang diễn ra sẽ ảnh hưởng như thế nào tới hoạt động của doanh nghiệp là điều không dễ dàng. Do đó, quyết định thực hiện chuyển đổi số hay không sẽ cần thời gian.

Hạn chế về thị trường và các giải pháp chuyển đổi số: Hiện nay, Việt Nam vẫn chưa hình thành các cơ quan, tổ chức đóng vai trò như một kênh độc lập để đánh giá khách quan ưu, nhược điểm của các giải pháp công nghệ, qua đó giúp doanh nghiệp có đủ thông tin để đưa ra lựa chọn phù hợp. Đồng thời, đây cũng là những thông tin hữu ích, minh bạch, phân tích cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh trong quá trình chuyển đổi số thấy được các khía cạnh (tính sẵn sàng, hiệu quả của giải pháp kinh doanh số, phân tích các công nghệ số, rủi ro, kinh phí đầu tư…) để có giải pháp tự hoàn thiện mình.
Hạn chế về nguồn lực tài chính cho chuyển đổi số: Các dự án chuyển đổi số có thể tốn rất nhiều kinh phí đầu tư, trong khi năng lực tài chính của các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa còn khá hạn chế. Theo khảo sát từ Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), năm 2020, có đến 55,6% doanh nghiệp tham gia khảo sát cho rằng, chi phí ứng dụng công nghệ là hạn chế lớn nhất. Chi phí thay đổi quy trình, đào tạo nhân sự để thích ứng với quy trình mới; chi phí đầu tư cho hệ thống công nghệ thông tin như việc phải triển khai một số hệ thống công nghệ thông tin sẽ dẫn tới việc tăng đầu tư và các chi phí vận hành hệ thống.
Khung thể chế phục vụ chuyển đổi số ở Việt Nam còn cồng kềnh: Mặc dù Chính phủ đã kiện toàn Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số theo Quyết định số 1619/QĐ-TTg ngày 24/09/2021, các Ủy ban tương tự cũng được thành lập ở cấp tỉnh, trong đó Chủ tịch UBND tỉnh là người đứng đầu Ủy ban. Tuy nhiên, ở khâu vận hành, các nhiệm vụ lớn trong chương trình chuyển đổi bị dàn trải, khiến cho công tác phối hợp và triển khai chính sách gặp nhiều thách thức. Bên cạnh đó, sự hỗ trợ của Chính phủ còn hạn chế đối với các doanh nghiệp số hoặc doanh nghiệp đang muốn đầu tư vào các công cụ số. Hỗ trợ từ khu vực công vẫn chỉ tập trung cho hoạt động nghiên cứu và phát triển, thay vì cho nâng cấp công nghệ và thương mại hóa công nghệ.
Thiếu hệ sinh thái thuận lợi thúc đẩy các cơ sở sản xuất kinh doanh chuyển đổi số: Môi trường kinh tế số tại Việt Nam còn khá khiêm tốn, ngoài chỉ số mật độ thuê bao internet băng rộng, các chỉ số khác còn rất hạn chế, cụ thể: chưa có các định hướng công nghệ trọng tâm, mang tính thương hiệu của Việt Nam thông qua các dự án nghiên cứu và đầu tư lớn; doanh nghiệp công nghệ số của Việt Nam hiện có mức đầu tư thấp vào phát triển khoa học và công nghệ để đổi mới so với các doanh nghiệp quốc tế. Ngành Công nghiệp công nghệ thông tin và điện tử viễn thông có tỷ lệ nội địa chỉ đạt 15%. So sánh với các nước, tỷ lệ nội địa hóa của các doanh nghiệp Nhật Bản đang hoạt động tại Việt Nam năm 2017 là 33,2%, năm 2018 là 36,3% (trong khi Trung Quốc là 68%, Thái Lan là 57%).
Giải pháp chuyển đổi số cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam
Để chuyển đổi số thành công, doanh nghiệp nhỏ và vừa cần thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, nhưng cũng cần chia nhỏ thành nhiều giai đoạn khác nhau, từng bước thực hiện, hình thành nên một môi trường chuyển đổi số phù hợp với từng doanh nghiệp, các giải pháp đó là:
Một là, nâng cao nhận thức của chủ doanh nghiệp, cán bộ quản lý, người lao động trong doanh nghiệp về hiệu quả của chuyển đổi số đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Hai là, cần tăng cường hoạt động marketing của các doanh nghiệp công nghệ để các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận được nhiều hơn nữa với các giải pháp chuyển đổi số hiệu quả mà các doanh nghiệp công nghệ cung cấp.

Ba là, cần tăng cường sự hỗ trợ của nhà nước đối với các doanh nghiệp cung cấp công nghệ số, bởi vì các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ số có phát triển với nhiều loại dịch vụ đa dạng, phong phú thì mới có thể cung cấp cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa những giải pháp chuyển đổi số phù hợp được.
Bốn là, nâng cao tính tiên phong của các doanh nghiệp nhà nước trong chuyển đổi số. Các doanh nghiệp nhà nước thường có lượng vốn lớn, áp dụng công nghệ hiện đại trong sản xuất, kinh doanh nên việc chuyển đổi số sẽ dễ dàng hơn so với các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Năm là, Nhà nước cần chú trọng xây dựng các dự án nghiên cứu và đầu tư lớn vào lĩnh vực chuyển đổi số. Thông qua các dự án này sẽ thu hút được nguồn lực đầu tư về vốn, con người, trang thiết bị hiện đại của các doanh nghiệp trong và ngoài nước đang thực hiện cung cấp công nghệ chuyển đổi số.
Sáu là, các doanh nghiệp nhỏ và vừa cần có phương pháp chuyển đổi số phù hợp với doanh nghiệp mình.
>>> Xem thêm: Phần mềm kế toán Fast Accounting Online dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ
Bảy là, các doanh nghiệp nhỏ và vừa nên xây dựng một quy trình chuyển đổi số với các giai đoạn khác nhau. Chuyển đổi số không phải là hoạt động có thể diễn ra trong một thời gian ngắn, nó đòi hỏi một quá trình đầu tư thời gian, công sức, vốn và công nghệ phù hợp, tránh khuynh hướng chủ quan, nóng vội, muốn áp dụng công nghệ số ngay lập tức nhưng doanh nghiệp lại chưa đủ các điều kiện để chuyển đổi số gây ra những thiệt hại không đáng có.
Nguồn: tapchicongthuong.vn